Những chất gây ô nhiễm thường thấy Chất_lượng_không_khí_trong_nhà

Hút thuốc thụ động

Khói thuốc bay trong không khí, trong 1 quán nước

Hút thuốc thụ động là khói thuốc lá mà ảnh hưởng đến những người khác nhiều hơn là người hút. Khói từ việc hút thuốc thu động bao gồm cả ở pha khí và dạng hạt rắn, với những mối nguy hại đặc thù phát sinh từ mức độ cacbon mônôxít (như đã chỉ ra bên dưới) và các hạt rất nhỏ (2.5 Micrômét) mà có thể xuyên qua sự chống đỡ tự nhiên của phổi). Phương pháp duy nhất hiện nay để cải thiện IAQ từ việc hút thuốc thụ động là thi hành các luật về không khói thuốc.

Radon

Radon là một loại khí vô hình, có tính phóng xạ, là kết quả của sự phóng xạ của Radium, mà co thể được tìm thấy trong kết cấu đá bên dưới các tòa nhà hoặc lẫn trong vật liệu xây dựng các tòa nhà đó. Radon có lẽ là mối nguy hiểm nghiêm trọng và dễ lan tỏa nhất đối với không khí trong nhà tại Hoa Kỳchâu Âu, và chịu trách nhiệm cho 10 nghìn ca tử vong vì ung thư phổi mỗi năm.[4] Trên thị trường có bán những bộ thử khí Radon tự sử dụng tương đối đơn giản, nhưng đối với một căn nhà được đem bán thì việc thử khí này phải được thực hiện bởi người có bằng cấp tại các bang ở Hoa Kỳ. Khí radon xâm nhập vào các tòa nhà dưới dạng “hơi đất” và là khí nặng nên nó sẽ tích tụ tại tầng thấp nhất. Radon cũng có thể được đưa vào trong tòa nhà qua đường dẫn nước đặc biệt là các vòi hoa sen trong phòng tắm. Các loại vật liệu xây dựng có thể là một nguồn radon hiếm gặp, nhưng ít khi được kiểm tra đối với các sản phẩm gạch, đá hay đá lát mang vào công trường; sự tích tụ radon là nhiều nhất đối với những ngôi nhà được ngăn cách tốt.[5] Chu kỳ bán rã của radon là 3.8 ngày, cho thấy rằng một khi nguồn khí bị loại bỏ, mối nguy hại sẽ bị giảm mạnh trong vài tuần. Các phương pháp giảm trừ radon bao gồm niêm kín các tấm bê tông sàn, móng của tầng hầm, hệ thống rút nước, hay tăng cường sự thông thoáng.[6] Chúng thường khá tốn kém nhưng rất hiệu quả và có thể giảm nhiều hoặc ngay cả loại bỏ hẳn nguồn ô nhiễm và những rủi ro liên quan đến sức khỏe.

Các loại mốc và những chất gây dị ứng khác

Những hóa chất sinh học có thể phát sinh từ vật chủ theo nhiều cách, nhưng có hai loại thường thấy: (a) hơi ẩm gây ra sự phát triển của những tập đoàn mốc và (b) những chất tự nhiên thoát ra ngoài không khí chẳng hạn như “gàu” của động vật hay hạt phấn của thực vật. Mốc luôn đi kèm với hơi ẩm,[7] và sự phát triển của mốc có thể bị ngăn chặn bằng cách giữ mức độ ẩm dưới 50%. Hơi ẩm hình thành bên trong những tòa nhà có thể phát sinh từ nguồn nước xâm nhập các khu vực của phần bao quanh toàn nhà, từ những đường ống bị rò rỉ, sự ngưng tụ do không được thông khí hợp lý, hay do hơi ẩm từ đất đi vào tòa nhà. Ở những chỗ mà vật liệu dạng xơ (giấygỗ, bao gồm những tấm vữa) bị ẩm và không được làm khô trong vòng 48 giờ, mốc có thể sinh sôi và tỏa những bào tử gây dị ứng vào không khí.

Trong nhiều trường hợp, nếu vật liệu không thể khô đi vài ngày sau khi bị nước xâm nhập, mốc bị cho là phát triển bên trong các hốc tường kể cả khi ta không thể nhìn thấy ngay. Qua một cuộc kiểm tra, mà có thể bao gồm việc làm hỏng vật liệu khi kiểm tra, người ta có thể xác định được sự hiện diện của mốc hay là không. Trong trường hợp mà nơi đó mốc có thể được thấy rõ và IAQ có thể đã bị ảnh hưởng, và cần phải được khắc phục. Việc kiểm tra mốc nên được thực hiện bởi một người để tránh sai sót và đảm bảo kết quả chính xác.

Có vài chủng loại mốc mà có chứa chất độc (mycotoxin). Tuy nhiên, sự tiếp xúc mycotoxin ở mức độ nguy hiểm qua sự hít thở là không tồn tại trong hầu hết các trường hợp, vì chất độc sinh ra bởi quả thể nấm và không ở mức đáng kể trong lượng bào tử được sinh ra. Mối nguy hiểm chính của sử phát triển mốc, khi chúng có liên quan đến IAQ, là từ những tính chất gây dị ứng trên vách tế bào của bào tử. Nghiêm trọng hơn hầu hết các tính chất gây dị ứng là khả năng khởi đầu những căn bệnh ở những người bị hen phế quản, một căn bệnh hô hấp nghiêm trọng.

Cacbon mônôxít

Một trong những chất độc trong nhà nguy hiểm nhất là cacbon mônôxít (CO), là chất khí không màu, không mùi và là phó phẩm sinh ra từ sự đốt cháy không hoàn toàn các loại nhiên liệu hóa thạch. Các nguồn cacbon mônôxít thường gặp là khói thuốc lá, lò sưởi sử dụng nhiên liệu hóa thạch, lò nung trung tâm bị hỏng, và khí thải ô tô. Bằng cách chiếm lấy lượng oxygen từ não, hàm lượng cacbon mônôxít cao có thể gây ra buồn nôn, bất tỉnh và tử vong. Theo ACGIH (American Conference of Governmental Industrial Hygienists), giới hạn trung bình theo thời gian – cân nặng dành cho cacbon mônôxít là 25 ppm.

Lượng cacbon mônôxít trong nhà có thể được giảm đi một cách có phương pháp bằng các thực hiện các luật về không khói thuốc.

Hợp chất hữu cơ dễ bay hơi

Các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi (VOC) được thải ra dưới dạng khí từ những chất lỏng hay chất rắn nhất định. VOC gồm nhiều loại hóa chất đa dạng, một số có thể có những ảnh hưởng có hại ngắn hạn và lâu dài đến sức khỏe. Nồng độ của nhiều VOC thường cao hơn khi ở trong nhà (lên đến 10 lần) hơn là khi ở bên ngoài. VOC thường bị thải ra ngoài bởi nhiều loại sản phẩm với con số lên đến hàng ngàn. Ví dụ như: sơn và chất pha loãng, chất tẩy sơn, chất hỗ trợ tẩy rửa, thuốc trừ dịch hại, vật liệu xây dựng và vật dụng trong nhà, thiết bị văn phòng chẳng hạn như máy photo và máy in, mực bút xóa và giấy scan không cacbon, vật liệu vẽ và chế tạo bao gồm keo và các chất dính, bút lông không xóa, và các dung dịch hóa chất nhiếp ảnh.[8]Nước uống khử trùng bằng clo thải ra chloroform khi nước nóng được sử dụng ở nhà. Benzen thì từ nhiên liệu trữ trong các ga-ra. Dầu nấu ăn đun quá nóng sẽ thải ra acrolein và formaldehyd. Một bản phân tích tổng hợp của 77 bản khảo sát về VOC trong nhà tại Hoa Kỳ tìm thấy rằng mười chất nguy hiểm nhất trong nhà là acrolein, formaldehyd, benzen, hexachlorobutadien, acetaldehyde, 1,3-butadiene, benzyl chloride, 1,4-dichlorobenzene, cacbon tetrachloride, acrylonitrile, và vinyl chloride. Những hợp chất này đã vượt qua những tiêu chuẩn sức khỏe ở hầu hết các căn hộ.[9]

Những hợp chất hữu cơ thường được sử dụng rộng rãi làm nguyên liệu cho nhiều sản phẩm dùng trong nhà. Các loại sơn, vẹc-ni, và sáp đều chứa các dung môi hữu cơ, cũng như nhiều loại chất tẩy rửa, khử trùng, mỹ phẩm, tẩy nhờn. Những loại nhiên liệu được sản xuất từ các hóa chất hữu cơ. Tất cả những sản phẩm này có thể thải ra những hợp chất hữu cơ trong khi được sử dụng, và ở một mức độ nào đó khi chúng được lưu trữ. Việc kiểm tra khí thải từ những vật liệu xây dựng được sử dụng trong nhà đã trở nên khá phổ biến đối với các loại tấm trải sàn nhà, sơn, và nhiều loại vật liệu xây dựng, hoàn thiện quan trọng trong nhà khác.[10]

Một vài sáng kiến được xem xét nhằm làm giảm sự ô nhiễm không khí trong nhà bằng cách giới hạn khí thải VOC từ các sản phẩm. Có những quy định ở PhápĐức, và nhiều chương trình ecolabel tự nguyện, cùng với những hệ thống đánh giá với các tiêu chuẩn khí thải có chứa ít VOC chẳng hạn như EMICODE,[11] M1,[12] Blue Angel [13] và Indoor Air Comfort [14]châu Âu, cũng như California Standard CDPH Section 01350 [15] với những chương trình khác ở Hoa Kỳ. Những sáng kiến này đã thay đổi thị trường nơi mà đang có sự tăng lên về số lượng sản phẩm ít khí thải trong những thập kỷ trước.

Ít nhất 18 VOC vi sinh đã được mô tả [16][17], bao gồm 1-octen-3-ol, 3-methylfuran, 2-pentanol, 2-hexanone, 2-heptanone, 3-octanone, 3-octanol, 2-octen-1-ol, 1-octene, 2-pentanone, 2-nonanone, borneol, geosmin, 1-butanol, 3-methyl-1-butanol, 3-methyl-2-butanol, và thujopsene. Chất đầu tiên được gọi là rượu nấm. Bốn chất cuối cùng là sản phẩm của Stachybotrys chartarum, có liên kết với những triệu chứng bệnh văn phòng.[16]

Vi khuẩn Legionella

Legionellosis hay còn gọi là bệnh Legionnaire (nhiễm trùng phổi), gây ra bởi vi khuẩn sống dưới nước là Legionella, sinh sôi rất tốt trong môi trường nước tù đọng và ấm áp. Phương thức lây lan chủ yếu là qua sự hình thành hiệu ứng aerosol, thường nhất là từ những tháp giải nhiệt bay hơi hay đầu phun hoa sen. Một nguồn Legionella thường thấy trong những tòa nhà thương mại là từ những tháp giải nhiệt bay hơi được đặt sai vị trí và ít được bảo trì, mà thường hay xả nước ra dưới dạng aerosol, có thể xâm nhập vào các miệng gió gần đó. Dịch bệnh lây lan ở những trung tâm y tế và bệnh xá, nơi mà những bệnh nhân thường bị suy giảm miễn dịch hoặc miễn dịch yếu, và những ca bệnh thường được báo cáo nhiều nhất là Legionellosis. Có hơn một trường hợp có liên quan đến những vòi nước công cộng bên ngoài nơi nhiều người tập trung. Sự hiện diện của Legionella trong những nguồn cấp nước tại những tòa nhà thương mại thường bị báo cáo sai lệch khá cao, vì với những người khỏe mạnh thì phải có sự tiếp xúc nhiều mới bị lây nhiễm.

Xét nghiệm Legionella thường bao gồm việc thu thập mẫu nước và mẫu phết bề mặt từ bồn làm mát, đầu phun hoa sen, vòi nước, và những vị trí khác mà nước ấm tập trung. Sau đó mẫu được cấy và “đơn vị hình thành tập đoàn” (cfu) của Legionella được xác định số lượng theo cfu/lít.Legionella là ký sinh của vi khuẩn đơn bào chẳng hạn như amip, và do đó chúng cần phải có điều kiện thích hợp cho cả hai. Vi khuẩn sẽ tạo thành một màng vi sinh để kháng lại những hóa chất và chất xử lý chống vi sinh, bao gồm cả Clo. Xử lý sự lây lan Legionella trong những tòa nhà thương mại có nhiều cách, nhưng thường bao gồm việc dội rửa bằng nước nóng (160 độ F; 70 độ C), tiệt trùng nước tĩnh trong các bể làm mát, thay thế các đầu phun hoa sen, và trong một vài trường hợp cần dội rửa các muối kim loại nặng. Những biện pháp xử lý phòng ngừa bao gồm việc điều chỉnh nhiệt độ nước nóng là 120 độ F tại vòi, đánh giá bản vẽ thiết kế nhà máy, loại bỏ các mảnh lưới chặn vòi nước, và kiếm tra thường kỳ các khu vực nghi ngờ có nhiễm khuẩn.

Các loại vi khuẩn khác

Có nhiều loại vi khuẩn gây ảnh hưởng đáng kể đến sức khỏe mà được tìm thấy trong không khí và những bề mặt trong nhà. Vai trò của những vi khuẩn ở môi trường trong nhà đang được nghiên cứu nhiều hơn bằng cách sử dụng các bản phân tích dựa trên di truyền của các mẫu ngoài môi trường. Hiện tại đang có nhiều nỗ lực nhằm liên kết những nhà sinh thái học vi sinh và các nhà khoa học về không khí trong nhà để đưa ra những phương pháp mới dành cho phân tích và đưa ra kết quả tốt hơn.[18]

Số lượng vi khuẩn trong cơ thể người (human flora) thì xấp xỉ gấp 10 lần toàn bộ tế bào của cơ thể người, với một lượng lớn vi khuẩn ngoài da và trong hệ tiêu hóa (gut flora).[19] Một phần lớn vi khuẩn được tìm thấy trong không khí và bụi ở trong nhà là rơi ra từ con người. Trong số những vi khuẩn quan trọng nhất được biết đến mà xuất hiện trong không khí ở trong nhà là Mycobacterium tuberculosis, Staphylococcus aureus, phế cầu khuẩn.

Sợi amiăng

Nhiều loại vật liệu xây dựng thông thường được sử dụng trước năm 1975 đều có chứa amiăng, chẳng hạn như các tấm lót sàn, dán trần, ván ốp, vật liệu chống cháy, hệ thống sưởi, vật liệu bọc ống, vật liệu trát tường, matit, và những loại vật liệu cách nhiệt khác. Thường thì một lượng sợi đáng kể từ sợi amiăng sẽ không bị thoát ra trừ khi vật liệu xây dựng bị xáo trộn, chẳng hạn như cắt, rải cát, khoan hay tu sửa lại tòa nhà. Loại bỏ vật liệu có chứa amiăng cũng không phải luôn là tối ưu vì các sợi có thể bị phân tán vào không khí trong suốt quá trình loại bỏ. Thay vào đó, một chương trình kiểm sót vật liệu có chứa amiăng tránh bị ảnh hưởng thì vẫn được khuyến nghị.

Khi những vật liệu có chứa amiăng bị hỏng hay bị phân hủy, các sợi cực nhỏ bị phân tán vào không khí. Hít phải các sợi amiăng lâu dài thường làm tăng nguy cơ ung thư phổi, một dạng u trung biểu mô đặc thù. Nguy cơ ung thư phổi từ việc hít phải sợi amiăng cũng cao hơn là của những người hút thuốc lá. Những triệu chứng bệnh thường không xuất hiện khoảng từ 20 đến 30 năm sau lần tiếp xúc đầu tiên với amiăng.

Amiăng được tìm thấy trong những ngôi nhà và tòa nhà cũ, nhưng thường xuất hiện trong các trường học và môi trường công nghiệp. Chính quyền liên bang Hoa kỳ và một số bang đã đặt ra những tiêu chuẩn về mức độ Amiăng được cho phép hiện diện trong không khí ở nhà. Đối với những trường học thì có những quy định nghiêm ngặt riêng được áp dụng.

Cacbon điôxít

Cacbon điôxít (CO2) là chất thay thế, tương đối dễ đo đạc thay cho những chất gây ô nhiễm trong nhà mà thải ra bởi con người, và có liên quan đến hoạt động trao đổi chất ở con người. Cacbon điôxít ở nồng độ cao bất thường trong nhà có thể làm con người trở nên uể oải, đau đầu, hoặc chỉ hoạt động hạn chế. Con người là nguồn cacbon điôxít chính ở trong hầu hết cac tòa nhà. Nồng độ cacbon điôxít là chỉ thị sự thích hợp của sự thông khí bên ngoài tương ứng với mật độ người sống ở bên trong và hoạt động trao đổi chất.

Để loại trừ hầu hết các triệu chứng, tổng nồng độ cacbon điôxít trong nhà nên được giảm xuống thấp hơn 600 ppm. Viện nghiên cứu sức khỏe và an toàn nghề nghiệp quốc gia (National Institute for Occupational Safety and Health (NIOSH)) quyết định rằng nồng độ cacbon điôxít trong nhà mà vượt quá 1000 ppm là dấu hiệu cho thấy sự thông thoáng không thích hợp.[20]

Nồng độ cacbon điôxít tăng lên là do có người ở trong, nhưng chậm theo thời gian bởi sự gia tăng số người và không khí trong lành được đưa vào. Tốc độ trao đổi khí càng thấp thì sự tích tụ cacbon điôxít đến mức nồng độ gần như là “ổn định” sẽ càng chậm, mà từ đó những hướng dẫn của NIOSH và UK được dựa theo. Do đó, sự do đạc lượng cacbon điôxít cho mục đích đánh giá sự thích hợp của việc thông gió cần phải được thực hiện sau một khoảng thời gian kéo dài, kể từ khi có người ở và thông thoáng ổn định. Ở các trường học thì ít nhất là 2 giờ, và ở các văn phòng là 3 giờ - vì những nồng độ này là sự chỉ thị thích hợp cho việc thông thoáng đầy đủ. Những dụng cụ di động được sử dụng để đo đạc lượng cacbon điôxít nên được hiệu chuẩn thường xuyên, và những phép đo ngoài trời dùng để tính toán nên được thực hiện sát với những phép đo trong nhà. Sự chỉnh sửa hiệu ứng nhiệt độ trên các phép đo thực hiện ngoài trời có thể cũng cần thiết.Nồng độ cacbon điôxít trong những phòng kín hay chật hẹp có thể tăng lên đến 1000 ppm trong vòng 45 phút cách ly.

Tập tin:Edaphic Scientific CO2 Levels for HVAC and IAQ.jpgNồng độ cacbon điôxít trong một văn phòng khép kín có thể tăng lên đến hơn 1000 ppm trong vòng 45 phút.

Nồng độ cacbon điôxít trong những phòng kín hay chật hẹp có thể tăng lên đến 1000 ppm trong vòng 45 phút cách ly.[21]

Ôzôn

Ôzôn được tạo thành bởi tia tử ngoại từ mặt trời tác động đến bầu khí quyển của trái đất (đặc biệt là ở lớp ôzôn), tia sét, một số thiết bị điện cao thế nhất định (như máy lọc ion không khí), và là một phó phẩm của những chất gây ô nhiễm khác.

Ôzôn tồn tại ở nồng độ cao hơn tại những độ cao mà thường có máy bay dân sự bay qua. Nhũng phản ứng giữa ôzôn và những hóa chất trên các phương tiện, bao gồm dầu dưỡng da và mỹ phẩm, có thể tạo thành những chất hóa học độc hại. Bản thân ôzôn cũng gây kích thích các mô phổi và gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Những máy bay cỡ lớn thường có các bộ lọc ôzôn nhằm làm giảm nồng độ ôzôn bên trong xuống mức an toàn và dễ chịu hơn.[22]

Luồng không khí ở bên ngoài được sử dụng để làm thông thoáng có thể có đủ ôzôn để phản ứng với những chất ô nhiễm thường gặp cũng như các loại dầu dưỡng da và những chất hóa học hay những bề mặt thường thấy trong nhà khác. Thông thoáng khí với luồng khí bên ngoài có chứa nồng độ ôzôn cao có thể làm phức tạp thêm những nỗ lực khắc phục.[23]